Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam cập nhật mới nhất

Nếu là người Việt Nam chúng ta đều biết đất nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em, 54 dòng máu với những truyền thống văn hóa, phong tục tập quán đặc sắc của từng vùng miền, dân tộc. Tôi ao ước một lần được trải nghiệm và tìm hiểu hết 54 dân tộc anh em của đất nước mình để giới thiệu với bạn bè quốc tế, nhưng thực sự mong ước đó không đơn giản chút nào bởi sự phong phú về phong tục tập quán. Phong tục tập quán, văn hóa, ẩm thực và con người của các dân tộc khác nhau đã tạo nên sự đa dạng. Cần rất nhiều thời gian để nắm bắt và hiểu rõ. Bài viết hôm nay appvn xin tổng hợp tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam được cập nhật mới nhất để bạn đọc tham khảo.

Dân tộc Kinh

Dân số Kinh: 82.085.984 người – chiếm hơn 85% dân số Việt Nam

Người Kinh là dân tộc đa số ở Việt Nam. Người Kinh chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước. Từ ngữ dùng để giao tiếp chủ yếu là tiếng Việt và có tục thờ cúng ông bà tổ tiên.

Nghề trồng lúa nước được coi là hoạt động sản xuất đặc trưng của tộc người này. Một số tín ngưỡng tiêu biểu của người Kinh như thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu,… Trong đó, người dân có thể lựa chọn theo các tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin lành.

Trong gia đình người Kinh, người chồng sẽ là chủ gia đình, là tiếng nói và là chủ gia đình. Con cái sau khi sinh ra sẽ theo họ của cha. Con trai đầu sẽ có trách nhiệm thờ cúng ông bà đã khuất và lo việc nhà.

Với một nền văn hóa nghệ thuật rộng lớn từ văn học, nghệ thuật dân gian, lễ hội, .. đều mang những nét đặc sắc riêng. Và ở mỗi vùng Kinh khác nhau trên đất nước Việt Nam, chúng ta sẽ mang những dấu hiệu văn hóa với những nét khác biệt nhất định. Người Kinh đặc biệt có nhiều lễ hội được tổ chức quanh năm với nhiều nét mới, tạo dấu ấn riêng như lễ hội chùa Hương, lễ hội đền Hùng, lễ hội chùa Bái Đính, v.v.

. “Mời nhau uống trà” được biết đến như một nét ẩm thực cơ bản nhất của người Kinh. Trong mỗi mâm cơm gia đình thường sẽ có canh cá, canh rau, sử dụng nhiều loại mắm (mắm tép, mắm tép, ..)

Cũng tùy theo vùng miền sinh sống mà người dân sẽ có những bộ trang phục đặc trưng riêng và cũng có sự ràng buộc của các dân tộc khác. Đặc biệt là áo dài, áo tứ thân, áo bà ba, ..

Dân tộc Kinh

Dân tộc Tày

Dân tộc Tày: 1.845.492 người

Địa bàn cư trú: Trung du và miền núi phía Bắc (nhiều nhất ở Bản Hồ và Thạnh Phú)

Từ: Tày – Thái (Thái – Ka Đai). Chữ viết của dân tộc Tày dựa trên bảng chữ cái Latinh từ năm 1960, khá giống chữ viết của người Việt cổ.

Dân tộc có số dân đông thứ 2 trong nội dung tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam mà chúng tôi muốn giới thiệu hôm nay là dân tộc Tày. Người dân tộc này sống bằng các nghề như trồng lúa nước, trồng cây lâu năm như chè, hồi, thuốc lá. Tín ngưỡng của người Tày là tín ngưỡng đa thần và thờ cúng tổ tiên. Bởi theo quan niệm của người Tày “Vạn vật hữu linh” nên dù thế nào đi chăng nữa thì cái gì cũng có linh hồn của nó. Một số người dân tộc Tày có phong tục dắt chó đá về nhà để canh giữ, bảo vệ gia đình. Lá bưởi trong quan niệm của người Tày còn được coi là loại lá có tác dụng xua đuổi xui xẻo, trừ tà.

Văn hóa của người Tày cũng rất phong phú, họ có nhiều câu chuyện, bài thơ dân gian được lưu giữ từ bao đời nay. Nổi bật phải kể đến là những làn điệu giao duyên của các chàng trai, cô gái Tày – Lơn thường thấy trong các lễ hội, sinh hoạt văn hóa, .. Hàng năm sẽ diễn ra nhiều lễ hội lớn để kỷ niệm mùa màng như lễ hội Thanh minh, lễ hội đốt pháo, lễ hội Long Tòng, ..

Đặc điểm nổi bật của người Tày là tục cưới xin trong cùng dòng tộc. Hai bên sẽ có quyền tìm hiểu nhau, nhưng có được phép kết hôn hay không thì phụ thuộc vào quyết định của gia đình.

Những món ăn đặc trưng của người Tày có thể kể đến như thịt trâu xào măng chua, canh chua cá lóc, nem chua, ..

Trang phục của người Tày tưởng chừng khá đơn giản nhưng lại được thêu dệt tỉ mỉ mang đến vẻ đẹp rất đỗi giản dị cho người mực. Thường thì người Tày sẽ đeo thêm các loại trang sức bằng bạc như vòng tay, hoa tai, vòng tay, khăn quàng cổ để tạo điểm nhấn.

Dân tộc Tày

Dân tộc Thái

Dân số Thái Lan: 1.820.950 người.

Nơi cư trú: Người Thái thường sinh sống ở các tỉnh Sơn La, Nghệ An, Lai Châu, Hòa Bình.

Từ ngữ: tương tự như tiếng dân tộc Tày

Người Thái thường sinh sống ở hầu hết các vùng Tây Bắc Việt Nam, bao gồm cả Thái trắng và Thái đen. Đây là một trong số rất ít dân tộc ở nước ta có hệ thống chữ viết riêng có quan hệ với hệ thống chữ Phạn có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc.

Truyện cổ tích, thần thoại, ca dao, thơ ca… đều là kho tàng văn học quý hiếm mà dân tộc Thái gìn giữ bao đời nay. Tác phẩm nổi tiếng nhất là Khun Ly Nang Ua, Nong Chu Xon Xo. Trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật không thể bỏ qua những điệu múa đặc trưng nổi tiếng của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây với điệu múa sạp, múa Xòe vừa uyển chuyển vừa lôi cuốn. Một số lễ hội nổi tiếng của người Thái ở đất nước này là lễ hội gội đầu, lễ hội hoa ban, lễ hội Kin Pang Then, lễ hội cầu mưa, lễ hội thu hoạch, v.v.

Trước đây, trong hôn nhân, chú rể phải ở với chú rể vài năm đầu cho đến khi có con rồi mới được về nhà chồng sinh sống, nhưng ngày nay phong tục này đã bị bỏ. Phương pháp giúp người ngoài biết được cô gái Thái có chồng hay không là dựa vào búi tóc trên đầu (chỉ phụ nữ đã có gia đình mới biết).

Ẩm thực Thái Lan ở nước ta cũng có nhiều nét nổi bật với hương vị và cách thức sơ chế rất mới lạ. Chẳng hạn như món cá thác lác, kho măng chua, chẩm chéo, cá hun khói pa giang, ..

Dân tộc Thái

Dân tộc Mường

Dân tộc Mường: 1.452.059 người

Nơi cư trú: Người Mường tập trung ở các tỉnh phía Bắc. Đặc biệt là tỉnh Hòa Bình và một số huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa.

Từ vựng: Việt – Mường (hệ Nam Á)

Lúa nước là lương thực chính của dân tộc Mường. Được coi là dân tộc có đặc điểm khá giống dân tộc Kinh, dân tộc Mường cũng có những phong tục tập quán riêng. Ví dụ, thờ nhiều vị thần, ngoài thờ tổ tiên từng dòng họ còn thờ tổ tiên làng xã, thủ phủ, vua chúa, thần rừng, thần núi, v.v.

Trong văn hóa dân gian của dân tộc Mường vẫn còn lưu giữ nhiều nét đẹp mới như thơ, truyện cổ, ví, giặm,… Cồng chiêng, trống thổi, khèn Lừ, đàn Nhị là những loại hình âm nhạc công cụ sáng ngời của người dân tộc này.

Một số lễ hội nổi tiếng của dân tộc Mường như lễ hội chùa Hang, hội chùa Kế, hội mùa Khuông, lễ hội đền Bờ,… Vào những dịp này, nhân dân tụ họp để tưởng nhớ công lao của ông, bà, tổ tiên, gửi lời tri ân và cầu mong những điều may mắn, mùa màng bội thu. Sau đó, mọi người sẽ cùng nhau tham gia nhiều trò chơi hấp dẫn như ném tên, đánh cù, bắn nỏ, v.v.

Nói đến ẩm thực không thể bỏ qua các món măng rừng, rau rừng, vịt cỏ, xôi hay rượu cần của người Mường. Nổi bật là món ruột heo luộc, cơm lam, cá nướng, thịt trâu nấu lá lốt, ..

Trong bộ trang phục đặc trưng của dân tộc Mường có rất nhiều loại trang sức như vòng cổ, dây chuyền bạc, vuốt các loại.

Dân tộc Mường

Người Hmong (Н’mong)

Dân số dân tộc Hmông: 1.393.547 người.

Địa bàn cư trú: Người Н’Mông tập trung ở các tỉnh vùng cao như Tuyên Quang, Sơn La, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An. đặc biệt là Lai Châu.

Từ: Butt (Mèo – Dao)

Tiếp theo trong nội dung Tên và hình ảnh của 54 dân tộc Việt Nam hiện nay là người Hmông. Nơi người Mông xuất hiện đầu tiên trên đất nước ta là ở Mèo Vạc, Đồng Văn, Hà Giang. Đây là nơi được nhiều người Mông lựa chọn và coi đây là cội nguồn, quê hương của mình. Ngày nay, người Hmông đã mở rộng địa bàn sinh sống ra nhiều tỉnh ở miền Bắc nước ta như Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Thanh Hóa, Nghệ An, v.v.

Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Mông, ngoài thờ cúng tổ tiên, họ còn thờ nhiều vị thần. Giống như tín ngưỡng của một số dân tộc thiểu số khác vẫn được thực hành. Họ cũng tin vào vòng đời của con người

Những phong tục rực rỡ của người Hmông có thể kể đến là tục bắt vợ mà nguyên nhân chính là từ tình yêu thương bị ngăn cấm của gia đình. Tục bắt vợ ngày nay vẫn còn theo nhiều nghi thức và phong tục cổ xưa, cần lưu ý rằng nếu tình yêu đơn phương của chàng trai không được cô gái chấp thuận thì sẽ nhanh chóng bị từ chối. nói xấu nhà gái, tổ chức đính hôn trong 7 ngày.

Một số lễ hội tiêu biểu của người Mông phải kể đến như lễ hội xuống sông, lễ hội Gầu tào, lễ ăn ngô mới, lễ cúng cô hồn, lễ cúng thần rừng, ..

Nếu có dịp đến đây, bạn đừng bỏ qua cơ hội thưởng thức những món ngon của dân tộc Mông như thang co, men lá, cơm lam, rượu táo mèo, rượu ngô Bắc Hà, ..

Người Hmong (Н'mong)

Dân tộc Nùng

Dân số dân tộc Nùng: 1.083.298 người.
Người Nùng sống chủ yếu bằng nghề trồng lương thực chính như ngô, lúa trồng trên các sườn đồi. Ngoài ra, họ còn có rất nhiều nghề thủ công liên quan đến gốm, đan lát, rèn, dệt, mộc, ..

So với dân tộc Nùng, dù là họ hàng với con cái hay chị em, họ đều dựa vào tuổi cao sức yếu để khẳng định vị thế của mình. Mọi người không thường gọi tên ông, cha trong gia đình mà sẽ gọi tên con, tên cháu.

Kho tàng văn hóa của người Nùng cũng phong phú, đa dạng không thua kém các dân tộc anh em, trong đó không thể không kể đến những làn điệu dân ca đậm đà bản sắc núi rừng. Lễ hội nổi tiếng hàng năm của người Nùng thu hút đông đảo người dân tham gia là lễ hội xuống đồng (Lùng Tủng). Tại đây, mọi người sẽ mặc trang phục truyền thống với áo 5 thân, quần ống rộng dài đến mắt cá chân được nhuộm màu chàm. Đối với phụ nữ Nùng có tạp dề trước bụng. Tùy từng dân tộc Nùng mà cách quàng khăn và cách trang trí khăn sẽ có đôi chút khác biệt.

Dân tộc Nùng

Dân tộc Dao

Dân tộc Dao: 891.151 người

Dân tộc Dao cũng được chia thành nhiều nhóm khác nhau khá phong phú. Ví dụ: Dao đỏ, Lô gang, Quần trắng, … Mỗi nhóm sống ở những khu vực khác nhau và có trang phục, văn hóa riêng.

Cùng chung sống trên đất nước Việt Nam cũng góp phần to lớn vào quá trình làm nên bức tranh bản sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em ngày càng phong phú, đó là dân tộc Dao. Người Dao thường sống tập trung dày đặc ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Với hình thức du canh du cư, làm đất là chính, nông sản của người Dao thường là lúa, ngô, các loại rau như khoai, bầu, bí… Nghề trồng bông, dệt vải ở Việt Nam. Một số làng Dao cũng rất phổ biến. Ngoài ra, nghề rèn bạc cũng là thế mạnh của người Dao

Họ có một nền văn hóa rất đặc trưng về chữ, viết và kho tàng văn thơ, mỹ thuật, dân vũ … Tín ngưỡng của người Dao là tín ngưỡng đa thần nguyên thủy, họ tin rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn và nó cũng thể hiện tài năng của mình trong các nghi lễ mà họ thực hiện hàng năm. Nổi bật là Liên hoan khiêu vũ, Lễ tốt nghiệp.

Đặc biệt, người Dao có kiến ​​thức y học rất phong phú do sống trên núi nên khi bị bệnh, họ có thể tự chữa bệnh bằng cách hái lá thuốc mọc tự nhiên trong rừng. Từ đó tích lũy được rất nhiều bài thuốc hay và quý chữa nhiều bệnh khác nhau như lở loét, đau nhức xương, đau dạ dày, ..

Đơn giản chúng ta có thể nhận thấy rằng, người Dao có trang phục sặc sỡ trên nền chủ yếu là tông đỏ với áo dài, yếm, váy,… Tất cả đều được thêu hoa văn cụ thể, cẩn thận. .

Dân tộc Dao

Dân tộc Hoa

Dân số gốc Hoa: 749.466 người

Dân tộc Hoa là cái tên tiếp theo mà chúng tôi muốn chia sẻ đến các bạn trong danh sách tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam hiện nay. Người Hoa có văn hóa sống thành từng gia đình lớn, một gia đình có thể từ 4 – 5 thế hệ với nhiều người đến vài chục người cùng chung sống. Hiện nay, các gia đình người Hoa đã dần tách ra ở trong các hộ gia đình nhỏ lẻ, nhưng người dân vẫn sống rất thân thiện, không quá xa cách.

Thông thường, việc cưới xin của người Hoa sẽ do gia đình quyết định, họ rất chú trọng đến sự bình đẳng về địa vị kinh tế cũng như địa vị xã hội trong quá trình chọn gia đình để kết hôn – hay còn gọi là “môn đăng hộ đối”.

Người Hoa cũng có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, nhưng họ còn thờ nhiều vị thần, vị Phật khác như thần bếp, thần thổ địa, thần tài, quan âm, Bà Thiên Hậu, Nam Hải Quan Âm. Các ngôi chùa còn là nơi diễn ra nhiều lễ hội, sinh hoạt cộng đồng của người Hoa

Nói đến nghệ thuật và văn hóa, người Hoa vô cùng phong phú từ ca hát, múa, múa lân, đánh cờ,… Nổi bật là kinh kịch và nhiều loại nhạc cụ ồn ào như sáo, đàn tranh.

Dân tộc Hoa

Dân tộc Gia Rai

Dân tộc Gia Rai: 513.930 người

Một dân tộc sinh sống ở Tây Nguyên mà chúng ta không thể không nhắc đến đó là người Gia Rai. Nhắc đến người Gia Rai, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những ngôi nhà Rông – nó là biểu tượng của cộng đồng và văn hóa của tộc người này.

Người Gia Rai có nhiều lễ hội rực rỡ khác nhau như lễ cầu an, cầu mưa, cúng nhà Rông mới, bỏ mã, ..

Trong trang phục của người Gia Rai sẽ đóng khố, mặc áo sơ mi đen ngắn tay, hở nách có viền sử dụng đường chỉ màu dọc hai bên hông. Còn trang phục của phụ nữ Gia Rai sẽ là áo cánh ngắn bó sát, dài tay và váy chàm có đường viền hoa văn chạy quanh viền. Trên cạp quần sẽ có tua màu .. Toàn bộ trang phục có họa tiết rất tươi tắn

Ngoài nhà Rông, người Gia Rai còn nổi tiếng với rượu lon, ‘rung,’ long, cào cào, v.v.

Dân tộc Gia Rai

Dân tộc Êđê

Dân tộc Êđê: 398.671 người

Người Ê Đê sinh sống chủ yếu ở các vùng cao như Đắk Lắk, Đắk Nông,… ở đây họ sẽ sinh sống thành từng buôn làng. Nghề nghiệp chính của họ là du canh du cư.

Bến nước được nghe là bản sắc của người Êđê, được coi là nhu cầu cơ bản và là nơi mà mọi người cần tìm kiếm, có được trước khi quyết định lập nghiệp lâu dài. Chủ bến sẽ có trách nhiệm bảo vệ nguồn nước tại đây với sự gia truyền qua nhiều đời, nhưng đều là nữ thuộc dòng họ mẹ (theo cơ chế mẫu hệ).

Do chế độ mẫu hệ nên trong hầu hết các lễ hội, người phụ nữ trong nhà sẽ là người được mời uống rượu trước, sau đó mới đến người đàn ông. Đối với công việc đồng áng, chủ hộ là phụ nữ sẽ chịu trách nhiệm đốt rẫy, gieo sạ, chăm sóc và thu hoạch để mang lúa về nhà. Trong hôn nhân, người chủ động tìm bạn trăm năm cũng sẽ là phụ nữ. Người được thừa kế tài sản trong nhà từ mẹ hoặc bà sau khi ông bà mất là con gái út.

Bên cạnh cồng chiêng vốn là nét đẹp chung của nhiều dân tộc Tây Nguyên, người Êđê còn có một loại hình văn hóa nghệ thuật rất mới là kể chuyện và hát (Klei khan). Đồng thời lưu truyền nhiều câu chuyện sử thi chói lọi qua nhiều thời đại, nhiều thế hệ như Đam San, Đam Ji, Đam Tiong, Đam Trào Đam Rao, Hát Nha, Khing Ju, ..

Dân tộc Êđê

Dân tộc Ba Na

Dân tộc Ba Na: 286.910 người

Người dân tộc Ba Na thường có tập quán sinh sống gần núi, sông, suối tự nhiên. Ngoài trồng trọt, người Ba Na còn làm nhiều nghề thủ công như đan lát, dệt vải, gốm, rèn … Trong đó, nổi bật nhất là nghề dệt thổ cẩm. Tất cả các sản phẩm dệt thổ cẩm đều được làm thủ công với hoa văn tinh xảo, với nhiều màu sắc ấn tượng như đỏ, đen, trắng,… Mỗi sản phẩm đều phản ánh tư tưởng tâm linh và triết lý của vũ trụ trời đất.

Trong mỗi ngôi nhà của người Ba Na sẽ có một cây cúng thường được đặt trước cửa nhà hướng ra cổng chính. Mỗi dịp lễ tết, cúng bái, cưới hỏi, ma chay… mọi người trong nhà đều làm cây nêu để giao tiếp với tổ tiên, thần linh.

Văn hóa dân gian của dân tộc Ba Na cũng rất rực rỡ, không thể không kể đến những bài hát dài, truyện cổ, điệu múa dân gian và nhiều loại nhạc cụ dân tộc mới lạ, hấp dẫn. Người Ba Na còn có nhiều lễ hội rực rỡ như lễ tạ ơn cha mẹ, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, lễ tạ ơn thần lúa, … để cầu cho một vụ mùa bội thu và cũng là dịp để mọi người tụ tập vui chơi, giải trí cồng chiêng, uống rượu cần, v.v.

Dân tộc Ba Na

Dân tộc Xơ Đăng

Dân tộc Xơ Đăng: 212.277 người

Người Xơ Đăng sử dụng tiếng Xơ thuộc ngôn ngữ Môn-Khơme. Họ là những người sinh sống lâu đời trên vùng Trường Sơn, Tây Nguyên và các địa phương lân cận với Quảng Nam, Quảng Ngãi. Người Xơ Đăng phần lớn làm nương, ngoài ra còn có một số loại ngô, sắn, chuối, mía, thuốc lá,… Người Xơ Đăng còn có tín ngưỡng đa thần, đa nghi. Tục thờ cúng giao tiếp với các thế lực siêu nhiên nhằm mục đích cầu bình an, cầu mùa màng và mong tránh được những điều xui xẻo cho cộng đồng.

Tùy theo vùng người Xơ Đăng sinh sống mà phong tục tập quán của người Xơ Đăng ở mỗi vùng sẽ khác nhau. Tuy nhiên, họ vẫn duy trì cơ chế nhiều thế hệ cùng chung sống trong một ngôi nhà sàn dài. Phong tục cưới hỏi của người Xơ Đăng rất mới, chú rể và cô dâu sẽ thay nhau ăn đùi gà, chia mâm cơm và bưng rượu cho nhau để uống nhằm ngụ ý tình cảm gắn bó bền chặt giữa hai bên. Thông thường trong quá trình tổ chức đám cưới, họ sẽ không ở lâu với nhà trai, nhà gái mà cứ vài năm lại thay đổi một lần. Mãi cho đến khi cha mẹ qua đời, nó mới được sửa chữa.

Người Xơ Đăng gắn liền với nhiều làn điệu, bài hát, điệu múa cùng với các loại nhạc cụ dùng trong lễ hội. Kho tàng truyện cổ của người Xơ Đăng cũng rất phong phú và mới lạ. Bạn sẽ có cơ hội lắng nghe những câu chuyện kể của các già làng khi đến với vùng đồng bào Xơ Đăng sinh sống.

Với bộ trang phục truyền thống có màu đen chủ đạo, nam giới sẽ đóng khố và để ngực trần, chỉ trong những dịp đặc biệt mới đội khăn xếp trước ngực. Phụ nữ sẽ có váy, áo ngắn tay và một chiếc khăn choàng bằng vải cotton dệt với nhiều màu sắc phong phú nhưng chủ yếu là màu đen. Trang phục của người Xơ Đăng khá giống với hầu hết các dân tộc khác sinh sống ở Tây Nguyên nhưng điểm nổi bật là họa tiết trên trang phục.

Dân tộc Xơ Đăng

Dân tộc Sán Chay

Dân số dân tộc Sán Chay: 201.398 người

Tiếp theo trong nội dung chia sẻ Tên và hình ảnh của 54 dân tộc Việt Nam hiện nay là dân tộc Sán Chay. Nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong đời sống sản xuất của người Sán Chay. Họ thường sống với nhau thành từng làng để tạo sự đoàn kết. Người Sán Chay đã quen với điệu múa Tắc Xinh, một trong những di sản văn hóa cần được bảo tồn. Ngoài ra, còn có một mùa khá mới của dân tộc Tắc Xìn.

So với người Sán Chay, họ sẽ được chia thành nhiều dòng họ khác nhau và với mỗi dòng họ sẽ có một điểm nhấn nhất định, họ sẽ có một vị thần thờ cúng nhất định. Điểm mới lạ trong đám cưới của người Sán Chay này là mặc dù nhà trai sẽ tổ chức đám cưới cho con nhưng sau đám cưới, cô dâu sẽ ở với bố mẹ đẻ và chỉ thỉnh thoảng mới về nhà chồng. . Mãi đến khi có bầu, họ mới thực sự dọn về nhà chồng.

Trong văn hóa dân gian của người Sán Chay còn lưu giữ nhiều bài thơ, ca dao, tục ngữ cổ. Nổi bật nhất là Sình Ca – một trò diễn dân gian đặc sắc của dân tộc Sán Chay. Trong mỗi lễ hội, người Sán Chay sẽ sử dụng nhiều nhạc cụ như la la, chuông, khèn, óc… kèm theo các điệu múa trống, múa gâu, múa đâm cá, múa xẻng tôm….

Trang phục của người Sán Chay thường khá giống trang phục của người Tày hoặc người Kinh. Phụ nữ Sán Chay đời thường sẽ có một chiếc quai túi để thay cho thắt lưng, ngày lễ thì đeo 2-3 chiếc thắt lưng bằng vải với nhiều màu sắc khác nhau để làm nổi bật.

Dân tộc Sán Chay

Dân tộc Cơ Ho

Dân tộc Cơ Ho: 200.800 người

Dân tộc Cơ Ho hay còn gọi là Cơ Ho, ₭ ‘ho, .. là một dân tộc sinh sống hầu hết ở khu vực Nam Tây Nguyên nước ta. Họ thường sống ở vùng núi cao, tách biệt với các dân tộc khác nên hầu hết vẫn giữ được nhiều nét đẹp văn hóa riêng. Người Cơ Ho chủ yếu sản xuất nông nghiệp và lâm sản. Là dân tộc cũng có tín ngưỡng đa thần, họ cũng tin rất nhiều vào sự tồn tại của các sức mạnh siêu nhiên từ thần mặt trời, thần núi, thần mặt trăng, thần đất, .. vào những sự kiện trọng đại của trái đất. quốc gia. Trong làng, người dân sẽ tổ chức lễ cúng thần linh để liên hệ với thần linh giúp đỡ.

Trong đời sống xã hội, người Cơ Ho vẫn theo cơ chế mẫu hệ, chủ gia đình vẫn là phụ nữ. Sau thời kỳ hôn nhân, người đàn ông sẽ về nhà vợ sinh sống, con cái trong nhà sẽ theo họ mẹ. Đặc biệt người Cơ Ho rất kiêng kỵ việc kết hôn cùng dòng tộc. Hôn nhân của dân tộc Cơ Ho luôn được sự tôn trọng và đồng ý của hai bên, không có ý ép buộc.

Trước đây, trong ẩm thực, người Cơ Ho chủ yếu nấu trong ống tre, nứa, nhưng sau này sử dụng nhiều dụng cụ làm bằng đất nung, đồng,… Nước uống sẽ được đựng trong bầu hoặc nghêu khô. Thức ăn được chuẩn bị để thuận tiện cho hoạt động bốc xếp.

Văn học dân gian và văn học dân gian của người Cơ Ho cũng vô cùng rực rỡ. Họ có rất nhiều thơ trữ tình, hơn 400 câu chuyện cổ tích, nhiều bài hát và điệu múa thường được sử dụng cho các lễ hội. Có nhiều loại nhạc cụ như cồng chiêng, sáo trúc, khèn,… Người Cơ Ho còn có một cái Tết lớn kéo dài từ 7-10 ngày sau khi thu hoạch mùa màng nghĩa là đem lúa mới về nhà. Lễ hội này sẽ được tổ chức ngoài trời và hàng năm người dân sẽ thay nhau hiến một con trâu để tổ chức lễ cúng và phân phát thịt cho các gia đình khác trong làng.

Dân tộc Cơ Hoa

Dân tộc Sán Dìu

Dân số dân tộc Sán Dìu: 183.004 người

Người Sán Dìu sử dụng tiếng Sán Dìu thuộc nhóm người Hoa và ngôn ngữ này vẫn được bảo tồn và sử dụng trong giao tiếp đời sống hàng ngày trong các gia đình nhiều thế hệ, các bác sĩ, thầy cúng, … Các dân tộc nhỏ có nhiều họ khác nhau. Người Sán Dìu khi gặp nhau, nhận ra nhau sẽ dùng câu chào “Sán Dìu loong si” – tức là người Sán Dìu ít người nên cần yêu thương, quý trọng nhau ôm và hôn.

Một điểm nhấn không thể không kể đến trong nét văn hóa đặc trưng của người Sán Dìu chính là nét ẩm thực mới lạ mà người dân tộc này sở hữu. Họ chế biến các món ăn khá phức tạp và sử dụng nhiều loại gia vị khác nhau như đất, gừng, tỏi, … Tất cả thức ăn của người Sán Dìu sử dụng phải được nấu nóng để ăn và thổi. nhưng đừng để nguội. Họ cũng có rất nhiều loại bánh khác nhau như bánh chưng gù, bánh chưng hình ống, bánh đầy, bánh tro,… Tất cả đều được dùng trong các dịp lễ tết, cưới hỏi. Nhưng bánh phù dâu và bánh ngày chỉ được dùng ở hầu hết các đám tang.

Vào những dịp bình thường, người đàn ông Sán Dìu sẽ mặc quần đùi hoặc quần dài sẫm màu, cạp chun, có 2 túi. Áo được may theo kiểu cô mặc dài đến đùi, có 2 túi. Phụ nữ sẽ luôn mặc 2 áo theo cặp với cáo trong luôn sáng hơn cáo ngoài, áo ngoài may 3 tà, dài đến đầu gối và đeo yếm, quàng khăn đen hình mỏ quạ.

Vào những ngày lễ hội, bạn có thể mặc quần áo bình thường nhưng mới hơn, đi guốc gỗ và quấn khăn thổ cẩm hoặc nhung. Đồ trang sức của phụ nữ Sán Dìu không nhiều như các dân tộc khác, chỉ có hoa tai, vòng bạc, lắc tay bạc và một quả cau ăn trầu.

Dân tộc Sán Dìu

Dân tộc Chăm

Dân số Chăm: 178.948 người

Người Chăm nằm trong danh sách 5 dân tộc nói tiếng Austronesian, bao gồm: Gia Rai, Êđê, Chu Ru, Raglai và Chăm. Họ sinh sống chủ yếu ở Tây Nguyên với nét văn hóa truyền thống nổi bật nhất là mẫu hệ.

Người Chăm sinh sống chủ yếu ở ven biển miền Trung nước ta. Nổi bật là tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Người Chăm sử dụng chữ quốc ngữ là tiếng Ả Rập Phạn, du nhập vào Champa từ thế kỷ thứ II, nhưng đã có những thay đổi nhất định. Họ kiếm sống chủ yếu bằng các nghề liên quan đến chăn nuôi, làm đồ gốm và dệt vải.

Phong tục tập quán của người Chăm mang nhiều dấu ấn của Hồi giáo và Bà la môn từ các nghi lễ thờ thần, cưới xin, hỏa táng, .. Họ cũng là một tộc người mẫu hệ địa phương. Sau ngày giỗ sẽ làm lễ nhập Kút để đưa hài cốt những người cùng họ với mẹ về an táng tại nghĩa trang quê mẹ.

Người Chăm xưa đã để lại nhiều di sản quý hiếm, trong đó nổi bật nhất là những ngôi đền bằng gạch nung kiểu tháp mới của Ấn Độ và những tác phẩm điêu khắc đẹp đẽ khác. Các phương pháp nung cũng như việc xây dựng những ngôi đền này vẫn còn là một bí ẩn. Các vị thần sẽ được người Chăm thờ cúng trong các ngôi đền này. Trong số đó có bộ ba vị thần lớn của Ấn Độ: Brahma (đấng sáng tạo), Vishnu (người bảo vệ), Shiva (kẻ hủy diệt), Linga và Yoni, tượng trưng cho khả năng sản xuất,..

Dân tộc Chăm

Người Chăm còn có nhiều nghi lễ và lễ hội rực rỡ như lễ cúng nhà mới, lễ mừng tuổi, lễ nhập Kut, lễ Ramưwan, lễ Katê để tưởng nhớ các vị vua và thần Pô Nugar, và lễ Riji Praung. , ..

Người Chăm có nhiều món ăn độc đáo dành cho dân tộc mình. Giống như một món súp nấu với nhiều loại rau cắt nhỏ và trộn với gạo xay mịn, Ga Poi giống như một món cà ri nhưng được chế biến dưới dạng cơm chiên. Ghềnh Pai Pa của người Chăm là loại gạo được xay nhuyễn nấu chung với nhiều loại rau, khi nấu sẽ cho thêm mắm bò hóc của người Khmer và tạo thành món ăn trộn với bún hoặc cơm, .. Hoặc bánh cuốn lò nướng, bánh tổ yến, bánh gang, ..

Dân tộc Hrê

Dân tộc Hrê: 149.460 người

Người Hrê được biết đến với nhiều tên gọi khác như Chòm, Chăm, Kre, … họ sinh sống hầu hết ở Tây Nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ. Từ ngữ mà người Hrê sử dụng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme, khá gần với ngôn ngữ của các dân tộc Ba Na và Xơ Đăng. Người Hrê kiếm sống chủ yếu bằng trồng lúa nước, chăn nuôi lợn và gia cầm. Họ cũng làm nhiều nghề thủ công như đan lát, dệt thổ cẩm và rèn.

Người Hrê cũng yêu văn hóa, nghệ thuật vì từ xa xưa họ đã biết sáng tác thơ ca, thích hát và sở hữu nhiều nhạc cụ mới như đàn Brook, ling la, tiêu. la Giai, ching ka la, Khen ra vai, .. 2 làn điệu dân ca quen thuộc và nổi tiếng của người Hrê là Ka choi và Ka leuu.

Vì là dân tộc yêu quý và tôn trọng cộng đồng dân tộc nên khi có lễ hội, hầu như gia đình nào cũng cử người tham gia. Tiêu biểu nhất là lễ đâm trâu, lễ cúng thần ở làng.

Trang phục truyền thống của người Hrê so với nam giới sẽ đóng khố, để ngực trần hoặc mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng. Phụ nữ sẽ mặc váy hai tầng, áo và khăn trùm đầu. Ngày nay, nhiều gia đình dân tộc Hrê đã dần ăn mặc như người Kinh. Tuy nhiên, tục quấn khăn, quấn khăn của họ vẫn được lưu giữ.

Dân tộc Hrê

Dân tộc Raglai

Dân tộc Raglai: 146.613 người

Người Raglai hay còn được gọi với nhiều tên khác như Ra Glai, Ra Giây, Rang ngok, .. được biết đến là một nhánh của tộc người Chăm. Họ sống hầu hết ở các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Sơn, Khánh Hòa ở nước ta. Các từ mà người Raglai sử dụng thuộc ngữ hệ Maylay – Polynesian thuộc hệ thống Austronesian.

Người Raglai cho rằng khu vực thung lũng là đường đi của ma quỷ, lưng chừng đồi là nơi thần linh soi đường nên chỉ lưng chừng núi là nơi con người có thể sinh sống. Họ sẽ sinh sống trên những vùng đất cao, bằng phẳng gần sông để lấy nước sinh hoạt cũng như phục vụ các hoạt động sản xuất. Người Raglai chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa và ngô, khoai và rau. Các nghề gốm, đan lát, rèn … vẫn tồn tại nhưng tương đối thô sơ, chỉ để đảm bảo sinh hoạt và sản xuất.

Họ cũng nằm trong số các dân tộc sống theo hệ tư tưởng mẫu hệ. Ngoài uy quyền của mẹ trong nhà, tiếng nói của anh ta cũng tương đối quan trọng. Tục ép chồng của con gái vẫn được giữ lại, khi có ý với chàng trai sẽ báo cho bố mẹ vợ để lo lễ cưới. Con cháu khi sinh ra sẽ theo họ mẹ và con gái út là người được thừa kế tài sản. Người này còn có trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Tuy nhiên, khi người vợ thuộc dân tộc khác thì gia đình đó sẽ sống theo cơ chế phụ hệ.

Trong văn học dân gian của người Raglai có nhiều truyện thần thoại, sử thi, cổ tích có giá trị lịch sử, nghệ thuật và giáo dục cao. Sau mỗi vụ gặt, cả làng lại quây quần cúng Giàng, mừng lúa mới. Vào các dịp sinh hoạt, lễ hội, người Raglai thường tổ chức hát đối đáp, sử dụng các nhạc cụ dân tộc để giải trí như đàn đá, đàn chào, kèn môi, đàn nguyệt, đàn ma la …

Dân tộc Raglai

Dân tộc Mnông

Dân tộc Mnông: 127.334 người
Đây được biết đến là một tộc người sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên Việt Nam. Hầu hết người Mnông sống du canh du cư với phương thức chăn nuôi bằng lửa. Phương pháp phát quang, đốt và chọc lỗ để gieo hạt. Lúa được trồng theo phương pháp thủy canh. Là hình thức gieo hạt trồng trong đầm và dùng trâu cày xới đất, không cấy cây con.

Bên cạnh các nghề đan lát, rèn nông cụ, làm gốm thì nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng của người dân tộc Mnông ở Buôn Đôn cũng vô cùng nổi tiếng. Tuy nhiên, ngày nay, số lượng nạn săn trộm voi đã giảm đi rất nhiều.

Thông thường, người Mnông sẽ sống thành từng làng, bản và hầu hết các gia đình trong làng đều có quan hệ huyết thống. Người Mnông vẫn sống theo cơ chế mẫu hệ, phụ nữ chủ động lấy chồng nhiều hơn. Sau khi kết hôn sẽ ở rể và con cái sinh ra sẽ theo họ mẹ. Tuy nhiên, tùy theo và một số địa phương, cơ chế này đã dần tan rã.

Dân tộc Mnông

Điểm nổi bật trong hôn nhân của người Mnông này là họ rất coi trọng cơ chế một vợ một chồng. Trong luật tục của dân tộc Mnông là loạn luân và ngoại tình.

Dân tộc Ҳ’Tiêng

Dân tộc Tiêng: 100.752 người

Người Ҳ’Tiêng sinh sống lâu đời ở các tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng của nước ta, hiện nay sống xen kẽ với nhiều dân tộc khác như Kinh, Chăm, Mnông, Khmer trên các tỉnh miền nam. Tùy theo khu vực sinh sống, người Ҳ’Tiêng sẽ có thể làm nương, rẫy để kiếm sống.

Trong phong tục cưới hỏi, người Ҳ’Tiêng sẽ kết hôn khá sớm, nam thường từ 19 đến 20 tuổi, nữ từ 15 đến 17 tuổi. Tùy từng khu vực mà người Ҳ’Tiêng sẽ có những phong tục khác nhau để ở nhà gái hay nhà trai. Tuy nhiên, họ kết hôn từ các thị tộc khác nhau.

Người Ҳ’Tiêng yêu âm nhạc và loại nhạc cụ yêu thích của họ là chiêng sáu, cồng cộc và cồng chiêng. Họ sử dụng cồng chiêng để thể hiện tình cảm và khắc phục những xích mích giữa các gia đình. Cồng chiêng không được để ngoài đình, trừ lễ đâm trâu.

Trang phục truyền thống của người Ҳ’Tiêng khá đơn giản khi nam đóng khố, nữ mặc váy. Họ để tóc dài búi sau gáy, đeo hoa tai bằng gỗ và trang sức bằng ngà voi, cả nam và nữ đều thích đeo vòng tay. Họ cũng xăm và xăm lên khuôn mặt của họ những hình mẫu đơn giản.

Dân tộc Ҳ'Tiêng

Dân tộc Bru Vân Kiều

Dân số dân tộc Bru Vân Kiều: 94.598 người

Đây là dân tộc sử dụng ngôn ngữ của người Bru, thuộc ngữ hệ Cơ Tu thuộc ngôn ngữ Môn – Khơme. Bru Vân Kiều được biết đến là một trong những dân tộc thiểu số của Việt Nam. Ban đầu, người Bru Vân Kiều sinh sống ở miền Trung Lào, nhưng sau nhiều biến động lịch sử, hiện nay một số lượng lớn cư trú ở các tỉnh miền núi Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, một số lên Tây Bắc. đến Thái Lan.

Trong hôn nhân, người Bru Vân Kiều sẽ chịu nhiều quyết định của người chú trong gia đình. Trong đám cưới của người Bru Vân Kiều, theo phong tục nhà trai phải trao lại cho nhà gái một thanh gươm. Sau thời gian diễn ra lễ rước, họ sẽ phải trải qua nhiều nghi lễ phức tạp khác nhau.

Ngoài kiểu dáng của những ngôi nhà sàn nhỏ thường dựng ven suối hoặc xếp thành vòng tròn thì âm nhạc cũng là một yếu tố đặc biệt của người Bru Vân Kiều. Họ sở hữu nhiều loại nhạc cụ khác nhau như cồng chiêng, trống, thanh la, nhiều loại kèn (khèn, amam, ..), nhạc cụ (pơ mu, achung, ..) và các làn điệu dân ca. , dặm. Đây được cho là nét đẹp văn hóa nghệ thuật nổi tiếng của dân tộc Bru Vân Kiều.

Lễ hội nổi tiếng nhất của người Bru Vân Kiều là lễ hội đập trống diễn ra vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm để mừng trăng non.

Dân tộc Bru Vân Kiều

Dân tộc Thổ

Dân số dân tộc Thổ: 91.430 người

Dân tộc Thổ thuộc bộ tộc Việt-Mường, thường cư trú ở miền Tây Nghệ An. Ngôn ngữ của người Thổ Nhĩ Kỳ thuộc ngữ hệ Việt Nam trong hệ thống Austroasiatic. Tùy thuộc vào các nhóm dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ khác nhau, sẽ có một số khác biệt về ngôn ngữ và ngữ âm.

Người Thổ sẽ sống bằng nghề làm ruộng, trồng lúa, trồng gai. Trong số đó, lá gai khi thu hoạch có thể dùng để đan thành nhiều loại vật liệu như lưới đánh cá, lưới săn, võng, bao .. Trước đây bà con có nghề đan lát nhưng sau này do điều kiện. Nền nông nghiệp và có sự giao lưu với nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác đã dần mai một.

Người Thổ Nhĩ Kỳ có phong tục “ngủ mái”, trong lễ hội, nam nữ được ngủ với nhau để chọn người bạn trăm năm thành vợ thành chồng. Tuy nhiên, các hoạt động không phù hợp sẽ không được phép vì luật pháp Thổ Nhĩ Kỳ rất nghiêm khắc trong vấn đề này. Trước khi tổ chức đám cưới, nhà trai sẽ phải làm việc cho nhà vợ tương lai để xác minh sức khỏe của cô ấy và nếu đám cưới diễn ra, nhà trai cũng nên chi rất nhiều tiền.

Người Thổ xưa có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ, ca dao, đặc sắc nhưng theo thời gian cũng mai một đi rất nhiều. Hiện nay, vào mỗi dịp lễ hội, các đôi trai gái Thổ Nhĩ Kỳ hát uống rượu cần, múa hát dưới tiếng cồng chiêng.

Dân tộc Thổ

Dân tộc Khơ Mú

Dân tộc Khơ Mú: 90.612 người

Người Khơ Mú còn được gọi là Xà Cầu, Tày Hay, Tếnh, Môn Xén,… Họ sống nhiều ở Nghệ An, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Yên Bái,… Trai sống du canh du cư. , trong đó các cây trồng phổ biến là lúa, ngô, sắn, khoai … Ngoài ra, gia súc, gia cầm cũng được chăn nuôi nhưng chỉ để phục vụ dịp lễ, Tết. khách mời.

Họ mà người Khmu sử dụng thường liên quan đến tên của động vật hoang dã, chim hoặc cây cối vì họ coi đây là tổ tiên ban đầu của họ. Và mỗi chủng tộc đều có một câu chuyện thần thoại để kể về nguồn gốc tổ tiên của chính mình, thật rực rỡ

Trong hôn nhân, người Khơ Mú khá bình đẳng và họ cũng rất chung thủy với nhau. Sau thời kỳ kết hôn, nhà trai sẽ ở nhà gái 1 năm rồi rước vợ về nhà trai. Còn vợ ở nhà đẻ con thì lấy mẹ, về nhà chồng thì lấy cha.

Dân tộc Khơ Mú tuy khá nghèo về vật chất nhưng đời sống dân trí rất phong phú, dồi dào. Họ rất tin vào các linh hồn, ma quỷ như ma trời, ma đất, ma mương, ma rừng,… Người dân sẽ có nghi lễ cúng bái. Và trong ngày Tết, không giống như các dân tộc khác, người Khơ Mú sẽ nhặt đá cuội để xông đất đầu năm cũng như múc nước chia cho mọi người trong nhà cùng uống, gọi là tục uống rượu mới.

Dân tộc Khơ Mú

Dân tộc Cơ Tu

Dân tộc Cơ Tu: 74.173 người

Người Cơ Tu thường kiếm sống bằng nghề trồng cây lương thực và khai thác lâm sản, mỗi năm chỉ làm một vụ. Ngoài ra sẽ có các hoạt động kinh tế khác như dệt vải, đan lát, đánh cá. đánh bắt, săn bắn, trao đổi hàng hóa dưới hình thức hàng đổi hàng. Ngày nay, với sự phát triển của du lịch, một số ngành nghề liên quan đến bán sản phẩm địa phương và biểu diễn múa cồng chiêng đã trở nên nổi bật hơn.
Trong năm, người Cơ Tu sẽ có nhiều lễ hội lớn như lễ mừng lúa mới, lễ đâm trâu, lễ cúng đất, lễ kết nghĩa… Họ sẽ sử dụng các loại nhạc cụ để múa các điệu múa truyền thống. Tên là Tungtung Yaya.

Điểm nhấn của trang phục Cơ Tu là ở hoa văn trang trí được dệt bằng cườm, nhiều loại khác nhau và đi kèm với trang sức làm bằng chất liệu như bạc, hạt nhựa, nanh. , mã não, ..

Tục xăm mình, xăm mặt, cưa răng hay nam giới phải búi tóc sau gáy của người Cơ Tu đã dần bị xóa bỏ.

Dân tộc Cơ Tu

Dân tộc Giáy

Dân tộc Giáy: 67.858 người

Dân tộc Giáy chung với các dân tộc Tày, Thái, Lào, Lự, Bồ У và Sán Chay. Họ đều sinh sống ở vùng Tây Bắc nước ta. Văn hóa của tộc người này là ở nhà sàn, tận dụng địa hình cao nguyên của thung lũng để trồng lan can.

Nếp sống văn hóa và trang phục của các dân tộc Tày – Thái cũng rất phong phú, mỗi dân tộc sẽ có phong tục thờ cúng các vị thần khác nhau nhưng đều có chung một quan niệm về sự kết nối giữa vũ trụ – sự sống – thần linh. . .

Dân tộc Giáy

Dân tộc Giẻ Triêng

Dân tộc Giẻ Triêng: 63.332 người

Dân tộc Giẻ Triêng là một trong sáu dân tộc sinh sống lâu đời ở Kon Tum. Họ sinh sống chủ yếu ở các vùng núi nên những vật dụng dùng để chở đồ là cõng, rổ, rá, túi, kéo,… vô cùng phổ biến. Họ mưu sinh bằng nghề nông, trong đó việc sử dụng các nông cụ như làm cỏ, cuốc, rìu… là chính nhưng máy móc không nhiều. Ngoài ra, người dân còn có nhiều hoạt động khác như săn bắn, chế tác, rèn, v.v.

Người Giẻ Triêng vẫn tin vào thần thánh nên có nhiều nghi lễ mới diễn ra trong năm như lễ mừng lúa mới, lễ thành hôn, lễ “mất răng”,… Ngoài tục dùng lá, rễ. và những thân cây rừng để chữa bệnh, Người ta vẫn giữ phong tục cúng thần khi ốm đau.

Trong hôn nhân, quyết định kết hôn của con cái rất được cha mẹ tôn trọng và con gái sẽ chủ động lấy chồng. Trước khi lấy vợ, đàn ông phải biết đan lát, đánh cồng chiêng, đàn bà con gái phải biết đan chiếu, dệt vải. Khi muốn cưới chàng trai nhà gái, nhà gái chuẩn bị 100 bó củi để nhà trai làm lễ cưới. Sau khi đám cưới kết thúc, các cặp đôi sẽ luân phiên ở nhà trai, nhà gái 3-4 năm một lần. Chỉ khi một trong hai bên có cha hoặc mẹ đã qua đời, họ mới bắt đầu ổn định.

Dân tộc Giẻ Triêng

Trang phục truyền thống của người Giẻ Triêng rất phong phú. Đối với nam giới, họ sẽ thường đóng khố và mặc áo khoác ngoài. Còn đối với phụ nữ, họ thường mặc váy bằng 2 loại vải cotton may lại với nhau thành hình ống. Váy có màu đen với nhiều họa tiết trắng đỏ. Khi mặc, váy sẽ ôm sát nách, che ngực và đắp thêm một lớp gấm để giữ ấm vai.

Đinh tút được biết đến là một loại nhạc cụ tiêu biểu, biểu trưng cho văn hóa nghệ thuật của dân tộc Giẻ Triêng. Chúng sẽ được sử dụng nhiều trong các lễ hội, đặc biệt là lễ hội Đuổm – lễ hội của dân tộc Giẻ Triêng.

Dân tộc Cống

Dân tộc Cống: 2.729 người

Đa số người Cống sống ở Điện Biên và Lai Châu. Họ sống bằng nghề nông, phần lớn thức ăn kiếm được trong rừng, bắt cá bằng tay hoặc dùng mồi độc làm từ lá cây rừng. Phụ nữ Cống không biết dệt nên hầu hết họ sẽ trồng bông để đổi lấy vải hoặc quần áo, nhưng họ đan rất giỏi.

Trước đây, phong tục chỉ dành cho những người cùng dân tộc kết hôn, nhưng sau này những người thuộc các dân tộc khác được kết hôn. Đối với những người cùng dòng tộc, phải 7 đời sau mới được kết hôn. Thông thường sau lễ cưới, nhà trai sẽ bắt đầu ở nhà trai, nhà gái sẽ để tóc lên đỉnh đầu. Khi hai người có con, họ sẽ kết hôn. Để tổ chức lễ đính hôn, nhà trai phải có bạc trắng trả nhà gái, nhà gái phải có của hồi môn để cô dâu mang về nhà chồng.

Dân tộc Cống

Dân tộc Tà Ôi

Dân tộc Tà Ôi: 52.356 người

Người dân tộc Tà Ôi thường sinh sống ở khu vực trên dải Trường Sơn của nước ta. Họ có nhiều tên gọi khác nhau như dân tộc Ta, dân tộc Ta. Trước đây, người Tà Ôi sống khá biệt lập với môi trường bên ngoài và thường sống chủ yếu bằng nghề hái lượm, săn bắt trong rừng sâu với nhiều thủ tục, văn hóa lạc hậu. Tuy nhiên, sau khi nghe lời mời của Đảng và Nhà nước, chúng tôi đã ra khỏi rừng, hòa nhập với cộng đồng và bắt tay vào làm kinh tế để xóa đói, giảm nghèo.

Với mỗi dân tộc Tà Ôi khác nhau, mỗi nơi sẽ có một tên gọi riêng cũng như những điều kiêng kỵ nhất định. Tuy nhiên, họ sống theo cơ chế phụ hệ, tất cả con cháu sẽ mang họ cha. Và chỉ có người con trai mới được thừa hưởng tài sản thừa kế do cha mẹ để lại.

Đời sống tín ngưỡng của người Tà Ôi cũng tin vào sự tồn tại của linh hồn trong vạn vật, họ tin và thờ nhiều vị thần như thần nước, thần ăn ở, thần nhà dài, thần rừng… Hàng năm đều tổ chức lễ cúng để xin thần linh che chở, bảo vệ.

Dân tộc Tà Ôi

Trong hôn nhân gia đình, các cặp đôi Tà Ôi sẽ được tự do tìm hiểu nhau. Họ sẽ đi “sim” – một phong tục của người Tà Ôi để thử quen bạn trăm năm, nhưng họ sẽ không được phép làm những chuyện “tình dục”. Sau đó, nếu phù hợp, các vật phẩm sẽ được trao và nhà trai sẽ nhờ người mai mối để hỏi cưới cô dâu.

Dân tộc Tà Ôi còn sở hữu một kho tàng ca dao, tục ngữ, câu đố, câu chuyện về cội nguồn gia đình, những bài học hay câu chuyện thể hiện tình yêu thương,… Những bài dân ca trữ tình cũng là một nét mới của dân tộc Tà Ôi như: Ròin. , Lum Tang Wai, Ka lai, ..

Dân tộc Mạ

Dân tộc Mạ: 50.322 người

Tiếp nối nội dung Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam là dân tộc Mạ. Họ là một dân tộc sống ở các tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai với nghề chính là du canh, trồng lúa và các loại cây như bầu, bí, bông, thuốc lá,… Họ cũng chăn nuôi đại gia súc. , gia cầm nhưng thường sẽ để chúng sống thành từng đàn trong rừng. Và chỉ khi cần giết thịt thì mới bị bắt để giết thịt. Dệt lụa và rèn sắt được biết đến là những nghề thủ công nổi tiếng của người dân tộc Mạ.

Người Mạ cũng theo chế độ phụ hệ, nhưng khi kết hôn, chú rể sẽ phải ở rể. Chỉ khi nhà gái nộp đủ tiền cho nhà gái mới được đưa về nhà trai.

Trong dân gian, dân tộc Mạ có nhiều câu chuyện, truyền thuyết, truyền thuyết mới, nổi bật nhất là truyện về rừng. Người Mạ cũng có nhiều làn điệu dân ca trữ tình, gọi là điệu tam âm.

Trang phục dân tộc Mạ cũng rất nổi bật khi nam giới sẽ đóng khố, để ngực trần hoặc áo chui đầu có tua dài với nhiều hoa văn sặc sỡ. Phụ nữ sẽ mặc váy và áo chui đầu có hình chữ nhật, ôm sát cơ thể và không xẻ tà. Đáy và lưng áo được trang trí nhiều hoa văn sặc sỡ.

Dân tộc Mạ

Dân tộc Co

Dân số dân tộc Co: 40.442 người

Đồng bào Cơ mưu sinh chủ yếu bằng nghề trồng lúa, ngô, sắn và quế. Đặc biệt là cây quế do người Co trồng cho năng suất và thu nhập ổn định

Trong cộng đồng người Co, những người lớn tuổi rất có tiếng nói và được kính trọng, người được suy tôn là trưởng bản sẽ là người có nhiều kinh nghiệm về phong tục tập quán, hiểu biết rộng về phương thức sản xuất và ứng xử. xã hội. , .. rất được dân làng kính trọng và tín nhiệm.

Người Co thường sẽ tìm hiểu nhau trước khi chính thức kết hôn, lễ cưới của họ cũng tương đối đơn giản và không quá tốn kém. Trước đây, hầu như người Co không lấy chồng khác dân tộc khác, nhưng ngày nay có nhiều cô dâu, chú rể là người Kinh, Hrê, Xơ Đăng, v.v.

Do người dân tộc Cơ không dệt vải nên họ thường mua quần áo của các dân tộc khác. Thông thường, nam giới sẽ đóng khố, để ngực trần, còn nữ giới sẽ mặc váy, áo yếm, áo sơ mi ngắn tay. Họ thích đeo vòng cổ, hoa tai, lắc tay hoặc vòng cổ bằng bạc. Nhiều phụ nữ Cơ quấn rất nhiều chuỗi hạt quanh lưng.

Dân tộc Co

Dân tộc Chơ Ro

Dân tộc Chơ Ro: 29.520 người

Dân tộc Chơ Ro là một trong bốn dân tộc sinh sống lâu đời ở Đồng Nai. Ngoài ra, người Chơ Ro còn sinh sống nhiều ở các vùng như Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận,… Nguồn sống của người Chơ Ro phần lớn phụ thuộc vào ruộng nước, chăn nuôi, săn bắn, đan lát. . , ..

Họ cũng thờ nhiều vị thần khác nhau, vị thần tối cao trong tín ngưỡng của người Chơ Ro là Yang И’du – vị thần sáng tạo ra thế giới, sau đó là Yang Koi – thần lúa và Tang Dah – thần nước. Thần Yang Bri. – Thần rừng, .. Trong số đó, con số may mắn tượng trưng cho sự vẹn toàn, trọn vẹn theo quan niệm của người Chơ Ro là số 7.

Người Chơ Ro không theo chế độ mẫu hệ, phụ hệ nhưng đều trọng thị. Vì trước đây chưa có hệ thống chữ viết nên hầu hết các câu chuyện lịch sử và truyện dân gian sẽ được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong số đó sẽ có nhiều câu chuyện về sự ra đời của loài người, về tổ tiên của người Chơ Ro, v.v.

Dân tộc Chơ Ro

Dân tộc Xinh Mun

Dân tộc Xinh Mun: 29.503 người

Dân tộc Xinh Mun là cái tên tiếp theo được chúng tôi nhắc đến trong chủ đề Tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam hiện nay. Đây là một dân tộc sinh sống hầu hết ở các tỉnh Lai Châu và Sơn La thuộc miền Bắc nước ta. Ngoài trồng lúa và làm nương rẫy, săn bắt, hái lượm cũng là một hoạt động quan trọng trong đời sống của người Xinh Mun.

Trước đây, người Xinh Mun chủ yếu sống du canh du cư, không có nơi ở cố định, nhưng dần dà về sau định cư thành các bản làng đông đúc, quần tụ với nhau. Họ có nhiều phong tục vẫn được duy trì theo thời gian như ăn trầu, uống rượu cần, nhuộm răng và ăn các gia vị cay.

Trong đám cưới của người Xinh Mun, nhà trai sẽ phải mang tiền sang cho nhà gái. Sau lễ cưới và sang năm khi cô dâu chú rể có con, nhà trai sẽ tổ chức lễ đón dâu về. Trong quá trình ở rể, cả cô dâu và chú rể đều phải đổi tên riêng theo tên mà bố mẹ vợ, chú rể hoặc thầy cúng đặt cho. Lễ sinh sẽ diễn ra tại nhà gái, khi em bé đủ tháng sẽ được mời thầy cúng đến hỏi tên.

Dân tộc Xinh Mun

Dân tộc Hà Nhì

Dân tộc Hà Nhì: 25.539 người

Người Hà Nhì ở Việt Nam hiện cư trú chủ yếu ở hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu, là những tỉnh giáp ranh với Trung Quốc. Họ sử dụng tiếng Hà Nhì thuộc ngôn ngữ Di của nhóm Lô Lô, trong các ngôn ngữ Tạng – Miến, Hán – Tạng. Người Hà Nhì sinh sống bằng nghề nông với hệ thống lan can ruộng rất nổi bật. So với các dân tộc khác, người Hà Nhì có nhận thức và trình độ học vấn tốt hơn.

Người dân tộc Hà Nhì được chia thành nhiều họ khác nhau, một số họ được đặt theo tên cha. Phần tên đệm được đặt theo tên của sinh vật tương ứng với ngày sinh. Trước khi kết hôn, nam nữ sẽ tìm hiểu nhau, hò hẹn, hát giao duyên, đến khi ngủ với nhau, thấy hợp nhau thì nhà trai mang gạo, thịt, gà, lợn đến hỏi cưới. Tùy theo khu vực mà người Hà Nhì sẽ có chồng hoặc không.

Người dân tộc Hà Nhì có nhiều lễ hội lớn trong năm như: Tết cổ truyền của người Hà Nhì – Hô Su Cha thường được tổ chức sau khi thu hoạch xong vào khoảng tháng 11 Dương lịch. tổ chức sau Tết Nguyên đán khoảng 2 tuần để các em mua sắm quần áo mới, vui chơi. Những ngày lễ quan trọng không kém trong văn hóa Hà Nhì này là lễ mời ma, cúng già, cúng Gà, cúng cơm mới, ăn xôi mới, ..

Bên cạnh những câu chuyện cổ, những bài thơ dài thì các loại nhạc cụ kèn lá, đàn môi, sáo dọc, la khu hay các điệu múa dân gian cũng là nét đẹp văn hóa rực rỡ của người Hà Nhì.

Dân tộc Hà Nhì

Dân tộc Chu Ru

Dân tộc Chu Ru: 23.242 người

Người Chu Ru hay còn gọi là Chơ Ru, Choru, Kru, … là dân tộc sống tập trung ở các tỉnh Ninh Thuận, Lâm Đồng. Họ sống thành từng làng và có một người đàn ông lớn tuổi đứng đầu để thực hiện các nghi lễ. Trong cộng đồng dân tộc Chu Ru, họ cũng được chia thành nhiều nhóm khác nhau, trong đó, ngoài buôn, già làng, thầy cúng, bà đỡ thì hầu hết sẽ tách biệt rõ ràng. . thành hai giai cấp giàu nghèo. Trong số đó, việc phân biệt sẽ dựa trên những đồ vật mà họ mang trên người như ngà voi, cồng chiêng, sừng tê giác, trống, chum, vại,… là những vật dụng ít ỏi của người dân, nhưng không có yếu tố bóc lột.

Thông thường, người Chu Ru sẽ sống trong một đại gia đình gồm 3 – 4 thế hệ sống chung một nhà. Tất cả các thành viên trong gia đình sẽ sản xuất và thưởng thức những sản phẩm giống nhau, những sản phẩm này sẽ được chuyển thành sản phẩm. gia đình chung. Hiện nay, chế độ mẫu hệ trong gia đình Chu Ru vẫn còn tồn tại khi người vợ, người chú trong dòng họ vẫn truyền nghề nghiệp cho con gái.

Người Chu Ru vẫn có tín ngưỡng thờ thần. Theo quan niệm của họ, con người khi mắc bệnh gì là do thần Yang gây ra, ngoài việc dùng bùa chú, cúng bái để chữa bệnh còn nhờ các thầy cúng có kinh nghiệm chữa bệnh phù hợp. với các vị thuốc từ cây rừng để chữa bệnh.

Dân tộc Chu Ru

Dân tộc Lào

Dân số Lào: 17.532 người

Dân tộc Lào là một trong những dân tộc thiểu số hiện đang cư trú ở các tỉnh Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, ngoài việc áp dụng kỹ thuật canh tác, thủy lợi để trồng lúa nước, người Lào còn có các nghề phụ như làm gốm, dệt, làm đồ bạc, rèn, v.v.

Trong văn hóa của người Lào sẽ có một người giỏi ghi chép lại những câu chuyện cổ hay những câu ca dao để truyền lại cho các thế hệ để tránh bị mai một. Ngoài ra, nghệ thuật dân gian của dân tộc Lào cũng sẽ bị ràng buộc bởi một phần nghệ thuật dân gian của dân tộc Thái.

Trang phục truyền thống của dân tộc Lào dành cho nam sẽ mặc áo bông nhuộm chàm có cúc gỗ hoặc vải giống như của nam giới Thái. Trang phục nữ sẽ mặc váy đen quấn trước ngực, mép váy có hoa văn sặc sỡ, tà áo buộc vào thân và cài cúc bạc.

Dân tộc Lào

Dân tộc Kháng

Dân tộc Kháng: 16.180 người

Người Kháng thường làm ruộng, trồng trọt và chăn nuôi, đan lát và chèo thuyền là chủ yếu. Một trong những nét đẹp của văn hóa Quan họ nằm ở ngôi nhà sàn. Nhà sàn của người Kháng có 2 chái, 3 gian, mái lợp hình mõm rùa, 2 cửa sổ hai bên và 2 cửa ra vào ở hai đầu. Trong mỗi ngôi nhà sẽ có 2 gian bếp, 1 bếp dùng để nấu ăn hàng ngày và 1 bếp dùng để nấu đồ tế lễ.

Việc cưới xin của tộc Khang cũng hoàn toàn tự do, lễ đính hôn cũng không quá phức tạp. Sau khi chàng trai ngủ với cô gái 4-5 đêm để tìm hiểu, nếu họ thích nhau, họ sẽ bắt đầu lễ đính hôn. Sau 3 năm chung sống, cặp đôi sẽ làm lễ ra mắt họ hàng và cuối cùng là rước dâu.

Dân tộc Kháng

Dân tộc La Chí

Dân tộc La Chí: 15.126 người

Người dân tộc La Chí sống ở Lào Cai, Hà Giang có tập quán trồng lúa nước, làm nương rẫy, trồng bông, trồng chàm. Họ thường ở nhà sàn, nhà trệt, nhà kho hỗn hợp trong một không gian nhỏ hẹp nhưng thiết kế rất mới và nghiêm ngặt. Thường thì trong một gia đình sẽ có nhiều thế hệ hoặc các cặp vợ chồng cùng chung sống

Người La Chí cúng tổ tiên vào ngày Tết và đặc biệt là ngày chôn cất cha mẹ, con cháu phải ghi nhớ và hàng năm vào ngày này không được gieo mạ, cho mượn.

Việc nhận cha mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến ở người La Chí. Sau khi đứa trẻ được sinh ra 3 ngày, gia chủ sẽ xâu một sợi chỉ đỏ vào một chiếc bát đựng đầy nước và đặt lên bàn thờ, khi có người từ ngoài vào nhà sẽ trở thành cha mẹ nuôi của đứa trẻ. trẻ và sẽ có một nhiệm vụ đặc biệt cho đứa trẻ. Nếu trẻ khóc nhiều nghĩa là đặt tên đó không hợp với người, lúc này cần phải xem bói để tìm cha mẹ nuôi phù hợp để đặt tên cho con.

Người dân tộc La Chí có cách nấu xôi mới. Gạo họ sẽ nấu trong một cái chảo to, khi gạo sôi họ sẽ vớt ra và để vào một chỗ như đồ xôi. Cơm sẽ chín bằng hơi nước nóng và không bị vỡ hạt. So với các loại thực phẩm khác thì sẽ được phơi khô để dùng dần hoặc làm thịt chua.

Dân tộc La Chí

Dân tộc Phù Lá

Dân tộc Phù Lá: 12.471 người

Dân tộc Phù Lá sinh sống nhiều nhất ở tỉnh Lào Cai của nước ta, ngoài ra sẽ có một số ít sinh sống ở vùng Hà Giang, Yên Bái. Ngoài cái tên Phù Lá, tộc người này còn được gọi là Xa Phó, Bố Khô Pả, Va X Lào,… Nghề thủ công của người Phù Lá cũng rất nổi tiếng với các sản phẩm mây tre đan. làm hộp đựng như túi. Họ sẽ dùng chúng để đổi lấy nhiều hàng hóa khác để sử dụng trong cuộc sống

Cuộc sống của người Phù Lá có thể nghèo khó về vật chất, nhưng đời sống trí tuệ thì vô cùng phong phú. do bộ tộc Phù Lá làm chủ. Với những câu hát, ngâm khúc có độ luyến láy, thăng trầm trong giọng ca tài hoa của người Phù Lá sẽ truyền cho nhau truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc mình, về rừng. , núi và cánh đồng. ban công.

Trang phục dân tộc Phù Lá rất rực rỡ khi vừa mang nét đẹp truyền thống nhưng cũng rất hiện đại. Đối với nam, họ sẽ mặc một chiếc áo ngực được làm từ 6 mảnh vải. Cổ áo thấp, tay áo hẹp, cổ tay áo thêu đẹp mắt. Đối với nữ thường mặc áo dài 5 thân, cổ vuông, kiểu chui đầu. Chiếc váy có màu đen chàm và có trang trí hoa sặc sỡ ở trên và dưới. Trên đầu quấn khăn hoặc đội mũ có thêu hoa văn theo đúng nghĩa đen nhất.

Dân tộc Phù Lá

Dân tộc La Hủ

Dân tộc La Hủ: 12.113 người

Ngoài tên gọi La Hủ, dân tộc này còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như Co Chong, Xa La Vang, Khu Sung, Kha Quy,… Họ thường sinh sống ở vùng Lai Châu, Thái Nguyên. Các từ của người Lahu thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến của hệ thống Hán-Tạng.

Trước đây, người La Hủ chủ yếu sống bằng nghề làm rẫy, hái lượm và săn bắn. Tuy nhiên, những năm gần đây, họ đã học cách trồng trọt dưới nước và sử dụng trâu để cày ruộng.

Trong ngôi nhà của dân tộc La Hủ, chỉ có những người con trai trong gia đình được thừa hưởng tài sản do cha mẹ để lại. Về việc cưới xin thì hoàn toàn có thể tự do lựa chọn, tuy nhiên sau đám cưới, chú rể sẽ phải sống ở nhà vợ 2 – 3 năm mới được đưa vợ về gặp nhà trai. Người phụ nữ sẽ sinh con trong phòng ngủ riêng của mình và sau 3 ngày đứa bé sẽ được đặt tên, nếu trong 3 ngày này có khách thì đứa bé sẽ được đặt tên.

Người La Hủ yêu nghệ thuật khi có hơn chục điệu múa khèn, hát của dân tộc La Hủ với tiết tấu rất độc đáo và sử dụng tiếng Hà Nhì để hát.

Dân tộc La Hủ

Dân tộc La Ha

Dân tộc La Ha: 10.157 người

Dân tộc La Ha nằm trong danh sách 16 dân tộc thiểu số ở nước ta. Họ sống chủ yếu ở tỉnh Sơn La và làm ruộng, hái lượm để kiếm nguồn thức ăn là chính. Ngày nay, người La Ha đã biết trồng lúa nước và chăn nuôi thêm gia súc, gia cầm để cải thiện cuộc sống.

Những cuộc tình của La Ha là hoàn toàn tự do, nhưng việc kết hôn phải có sự đồng ý của cha mẹ. Để tỏ tình với cô gái, chàng trai sẽ đến nhà cô gái sử dụng các loại nhạc cụ như sáo, đàn nhị và hát bội để biểu diễn trước khi trò chuyện. Nếu sau lễ cưới, nhà gái không trả lại miếng trầu cho bà mối do nhà trai mang đến thì nhà trai sẽ tổ chức hôn lễ và ở rể từ 4 đến 8 năm. Sau thời gian này, lễ cưới sẽ được tiến hành, lúc này cô dâu sẽ theo chồng về nhà chồng và phải đổi họ của chồng.

Dân tộc La Ha

Dân tộc Pa Then

Dân số dân tộc Pa Then: 8.248 người

Người Pà Thẻn sống bằng nghề trồng lúa nước, nương rẫy và trồng chè Shan tuyết. Người Pà Thẻn chia thành nhiều họ khác nhau và dân tộc này cũng quy định khi cùng họ thì đã là họ hàng, không được lấy nhau.
Dân tộc Pà Thẻn có tục ở rể. Gia đình nào không có con trai thì được lấy vợ, ở rể. Con cái dù sinh ra mang họ cha nhưng vẫn phải thờ họ vợ.

Người Pà Thẻn quan niệm rằng họ luôn được các vị thần bao bọc, che chở nên có thể vượt qua muôn vàn khó khăn trở ngại. Trong đó, vị thần tối cao của người Pà Thẻn là thần Lửa. Họ thường tổ chức các lễ hội nhảy múa linh thiêng và huyền bí để thờ cúng các vị thần và thực hiện nghi lễ nhảy qua than hồng. Mười thanh niên khỏe mạnh của làng sẽ nhảy vào đống than đang cháy bằng đôi chân trần của họ, nhưng không hề sợ hãi hay bị bỏng.
Chính vì giá trị văn hóa rực rỡ mà lễ hội này mang lại, năm 2013 lễ hội nhảy lửa đã được công nhận là một trong những di sản văn hóa phi vật thể quốc gia của nước ta. Trở thành điểm du lịch thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến đây xem lễ hội diễn ra.

Người Pà Thẻn

Dân tộc Chứt

Dân tộc Chứt: 7.513 người

Dân tộc Chứt sinh sống ở các tỉnh như Quảng Bình, Đắk Lắk, Hà Tĩnh, Lâm Đồng. Các từ ngữ mà người Chứt sử dụng có cùng họ với tiếng Việt gốc. Trước đây, họ chủ yếu sống theo lối du canh du cư và khá nhút nhát, trốn trong rừng khi gặp người lạ. Thông thường khi đàn con không có quần áo, chúng chỉ che thân bằng vỏ cây cao su và ngủ trong lều hoặc hang tự tạo. Từ trước đến nay, người Chứt đã định canh, định cư, biết trồng trọt, chăn nuôi cũng như chăn nuôi, đan lát.

Người Chứt rất tin vào thần linh và đấng tối cao trong tín ngưỡng của họ là Thần Nông. Mỗi khi diễn ra các hoạt động nông nghiệp quan trọng như gieo mạ, gieo mạ, lễ cúng được tổ chức.

Dân tộc Chứt có món cơm niêu rất nổi tiếng. Xôi được nấu từ gạo nếp, ngô, sắn và đỗ rồi cho vào cối, giã thành bột, nhồi kỹ. Họ dùng ống nứa hoặc cái hông để cho bột đã nghiền vào, thêm một ít nước rồi quấn quanh miệng nải chuối. Loại cơm này thường được ăn với cá, sò, rau rừng hoặc thú rừng

Dân tộc Chứt

Dân tộc Lự

Dân số dân tộc Lự: 6.757 người

Người Lự có truyền thống làm nông nghiệp lâu đời, họ biết cày bừa, kênh mương dẫn nước, gieo hạt, cấy lúa và còn trồng nhiều loại cây khác như ngô, khoai, sắn, chàm, bông cạnh vườn. Hầu như nghề dệt vải khá phổ biến với người Lự, khi đến từng gia đình, bạn sẽ thấy ở đó có vài khung cửi.

Người Lự theo tín ngưỡng Phật giáo Nam tông và có nơi thờ tự. Lễ hội Phật giáo lớn nhất sẽ diễn ra vào tháng 6 hàng năm được gọi là lễ hội Songkran. Trong lễ hội của thầy mo, mọi người sẽ làm lễ và thực hiện nghi lễ té nước như gửi đến nhau những lời chúc may mắn.

Trong hôn nhân của người Lự, nhà trai phải ở rể 3 năm rồi mới dọn ra ở riêng. Con cái sinh ra sẽ lấy họ của cha. Nếu là bé trai thì có chữ Ba ở giữa, còn bé gái thì có chữ Ý ở giữa. Người Lự cũng sống khá chung thủy với nhau, theo luật, nếu trai bỏ vợ, gái bỏ chồng sẽ bị phạt rất nặng.

Dân tộc Lự

Dân tộc Lô Lô

Dân tộc Lô Lô: 4.827 người

Dân tộc Lô Lô sinh sống ở hai tỉnh Cao Bằng và Hà Giang. Tuy là một dân tộc ít người nhưng những giá trị văn hóa, truyền thống lâu đời của dân tộc này luôn được lưu giữ theo năm tháng. Thông thường, người Lô Lô sẽ sống trong những ngôi nhà quay lưng vào vách núi, cửa hướng ra thung lũng, nương rẫy. Gian nhà cũng có 3 gian như một số dân tộc khác với gian giữa là bàn thờ tổ tiên, tiệc chiêu đãi và đám cưới, đám tang. Phòng bên phải là nơi ông bà, bố mẹ sẽ ở và phòng bên trái là nơi ở của con trai, con dâu hoặc con rể. Phần trên của gác xép sẽ được dùng để khách ngủ lại hoặc phơi đồ trong nhà.

Trong hôn nhân, nam nữ người Lô Lô có thể tự do tìm hiểu nhau. Khi muốn kết hôn, bên nam phải nhờ 4 người mai mối, 2 cặp sang nhà gái hỏi cưới. Thông thường, quà cưới sẽ được mang sang nhà chú – người quyết định việc cưới xin hay phân chia tài sản trong nhà chứ không phải trực tiếp đến nhà gái.

Những chiếc trống đồng đối với người Lô Lô giống như một báu vật thiêng liêng mà thế hệ trước sẽ truyền lại cho thế hệ sau, chúng không chỉ mang yếu tố tâm linh mà còn là biểu tượng cho sức sống dân tộc của người Lô Lô.

Dân tộc Lô Lô

Dân tộc Mảng

Dân tộc Mảng: 4.650 người

Người Mảng sinh sống nhiều nhất ở khu vực Nậm Nhùn, Lai Châu. Ở đây, người Mảng thờ thần tối cao là trời, đồng thời tin vào yếu tố tâm linh nên đã tạo ra nhiều tục lệ kiêng kỵ như con dâu không được vào phòng ngủ của bố mẹ chồng, chết. người chết. có thai. Khi đi chôn phải đi bằng cửa phụ, không được đi cửa vào, ..

Đám cưới của người Mảng cũng là một sinh hoạt mang tính cộng đồng khá cao khi mọi người dân trong bản cùng giúp nhau thực hiện và hoàn thành lễ hội, múa hát. Ngày được chọn để tổ chức lễ cưới nên vào lúc mùa màng bội thu, phải là ngày đẹp không trùng với ngày giỗ của họ hàng hai bên gia đình. Lễ vật do nhà trai chuẩn bị sẽ gồm bạc trắng, lợn, gà, rượu cần, gạo nếp, cá suối khô và khô sóc hoặc thịt chuột. Những lễ vật này theo quan niệm của người Mảng là dùng để trao đổi cho con dâu nên trong lễ cưới của nhà gái, bố mẹ chồng sẽ không được tham dự. Đặc biệt, người Mảng còn có tục ném bùn, rượu và chậu nhục vào mặt nhau trong lễ cưới để cầu chúc may mắn.

Dân tộc Mảng

​​Dân tộc Cờ Lao

Dân số dân tộc Cờ Lao: 4.003 người

Dân tộc Cờ Lao sử dụng một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai, nhưng ngày nay số người nói ngôn ngữ này còn rất ít, hầu như chuyển sang ngôn ngữ chung. Đôi khi họ cũng sẽ sử dụng các từ Dad У hoặc Н’Mong để thay thế.

Họ sống trên các khu vực núi đá, vì vậy phần lớn thời gian họ sẽ làm nông và trồng trọt. Ở đây, cây ngô là cây lương thực chính của người Cờ Lao. Đối với những người sống trên núi, họ sẽ chuyển sang sống bằng nghề trồng lan can, đan lát, đóng đồ gỗ.

Trong tín ngưỡng Cờ Lao, họ tin rằng mỗi người, cây lúa, cây ngô hay các loài vật nuôi đều có linh hồn và vào mỗi dịp thu hoạch lúa, họ sẽ tổ chức lễ cúng. Vị thần quan trọng được hầu hết các phiên bản tôn thờ là Thần Đất.

Với những nhóm người Cờ Lao khác nhau, phong tục cưới xin sẽ có nhiều thay đổi khác nhau. Đối với người Cờ Xanh, chú rể sẽ mặc áo dài, quấn khăn đỏ quanh người và cô dâu sẽ phải đập bát, gáo gỗ khi đến cổng nhà. Hiện nay, tục ăn trộm vợ như người Н’Mông vẫn còn diễn ra ở dân tộc Cờ Lao.

Trong dòng họ Cờ Lao, nếu không có con trai, chú rể có thể phải ở rể và được thừa kế tài sản của bố mẹ vợ. Ở nhà sẽ có bàn thờ tổ tiên, bàn thờ vợ.

​​Dân tộc Cờ Lao

Dân tộc Bố Y

Dân tộc Bố Y: 3.232 người

Dân tộc Bố Y hiện sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang. Họ sử dụng các từ thuộc chi Thái trong ngữ hệ Tai-Kadai. Cha sống bằng nghề nông, chăn nuôi gia súc, gia cầm và có nhiều kinh nghiệm nuôi cá. Họ sẽ ra sông tìm trứng cá và bỏ ao, ruộng để nuôi.

Do sống ở vùng núi cao, độ ẩm cao và lượng mưa lớn nên các ngôi nhà buộc phải sử dụng các vật liệu dày đặc như tre, nứa, gỗ. Thông thường, những ngôi nhà sẽ nằm trên sườn đồi hoặc bờ suối, thung lũng có bệ nâng.

Đám cưới của bố khá phức tạp và tốn kém. Nét mới là chú rể sẽ không đi đón dâu mà em gái chú rể sẽ dắt ngựa đưa chị dâu về nhà chồng. Khi về nhà chồng, cô dâu sẽ mang theo một chiếc kéo, một con gà mái mẹ nhỏ đi giữa đường để thả gà rừng.

Trang phục của người cha У dành cho nam giới sẽ mặc một chiếc áo cánh ngắn với cổ có nếp và quần dài màu chàm. Phụ nữ sẽ mặc một chiếc áo Pu ngắn với ống tay rộng, một chiếc váy che bụng và ngực, và một chiếc váy Phin có hoa văn.

Dân tộc Bố Y

Dân tộc Ngái

Dân tộc Ngái: 1.649 người

Người Ngái sử dụng hệ thống ngôn ngữ Hán-Tạng. Họ sống nhiều nhất ở các tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Đồng Nai, Bình Thuận,… Tùy theo khu vực mà người Ngái sinh sống, họ có thể trồng lúa, làm thủ công mỹ nghệ, đánh bắt cá.

Trong hôn nhân, gia đình của Ái khá bình đẳng, người chồng sẽ là trụ cột chính trong gia đình. Trước đây, trong lễ cưới, người Ngái sẽ trải qua hai lễ cưới là lễ thành hôn và lễ thành hôn. Phụ nữ Ngái khi sinh nở cần kiêng ăn gì. Sau khi sinh 60 ngày đầu hoặc sinh con thứ 40 mới được về quê.

Chú của anh ấy đóng một vai trò quan trọng trong gia đình của Ai. Đây là người sẽ như người cha thứ hai của các cô gái trẻ trong gia đình, khi cháu lớn sinh con, ông cũng sẽ là người giúp đặt tên cho cháu.

Dân tộc Ngái

Dân tộc Si La

Dân số dân tộc Sila: 909 người

Người Si La hiện đang sinh sống ở Lai Châu, họ sử dụng các từ thuộc ngữ hệ Tạng Miến thuộc ngữ hệ Hán-Tạng. Người Silas kiếm sống bằng cách trồng ngô và trồng lúa. Người Silas có nhiều thị tộc và tất cả đều có quan hệ mật thiết với nhau.

Ở Silas, hôn nhân sẽ là một vợ một chồng. Tuy nhiên, các con của ông cách nhau ba thế hệ sẽ kết hôn. Họ không đồng ý ly hôn nhưng cho phép các góa phụ tái hôn. Thông thường sau lễ cưới, cô dâu sẽ được về nhà chú rể. Hoặc chú rể ở với chú rể khoảng 1-8 năm, nhưng ngoài đời thì không. Sau khi hết thời hạn ở rể, chú rể sẽ buộc phải ly thân, ra ở riêng và có thể xây nhà ở gần bố mẹ vợ để làm ăn sinh sống.

Khi mang thai, phụ nữ Si La sẽ phải kiêng khem nhiều thứ, và họ sinh con tại nhà bằng cách ngồi sinh. Sau khi sinh xong, bố mẹ sẽ mời những người lớn tuổi trong làng đến hỏi tên, sau 3 ngày đặt tên sẽ làm lễ cúng thần linh cho đứa trẻ. Tên của người Si La có sự phân biệt giới tính rõ ràng qua họ này, đó là nam sẽ có chữ giữa là Chà, nữ sẽ có chữ giữa là Có.

Trang phục của dân tộc Si La khá phức tạp khi phía trước ngực sẽ được may khác màu so với các vị trí khác và đính nhiều đồng nhôm, bạc. Ở mỗi độ tuổi khác nhau, phụ nữ Si La sẽ có những chiếc khăn trùm đầu có màu sắc khác nhau. Thông thường, phụ nữ Si La mang một túi dây rừng được trang trí bằng chỉ đỏ.

Dân tộc Si La

Dân tộc Pu Péo

Dân tộc Pu Péo: 903 người
Người Pu Péo sinh sống chủ yếu ở Cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang với nghề trồng lan, trồng ngô, ba khía, đậu … Thức ăn hàng ngày chủ yếu của họ là bột ngô.

Tương tự như các dân tộc sống ở miền núi phía Bắc nước ta, người Pu Péo cũng có tín ngưỡng thờ đa thần. Họ thờ nhiều vị thần như thần rừng, thần núi, thần suối, thần sông,… Trong đó, lễ hội thờ thần rừng của người Pu Péo mang một nét văn hóa độc đáo không giống ai.

Người Pu Péo có nhiều dòng tộc khác nhau và họ có tục lệ rằng khi con trai của dòng họ này kết hôn với con gái của dòng họ đó thì sau này người con trai đó sẽ không được kết hôn với dòng họ này. Sau một thời gian kết hôn, con dâu sẽ về nhà chồng, con cái sinh ra sẽ mang họ cha.

Hiện nay, dân tộc Pu Péo là một trong số ít dân tộc ở Việt Nam còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Họ sử dụng nhiều nhất vào những ngày ăn chay với hình ảnh 2 trống đực và cái treo đối diện nhau, một người đứng giữa sẽ cầm chuối gõ vào trống.

Dân tộc Pu Péo

Người Rơ Măm

Người La Mã: 639 người

Họ sống chủ yếu ở Kon Tum, thường sống bằng nghề trồng lúa nước, làm ruộng là chính. Mỗi ngôi nhà trong làng sẽ có khoảng 10 – 20 người thuộc các thế hệ khác nhau cùng sinh sống. Hiện nay, các cặp vợ chồng kết hôn hầu hết đều độc lập về kinh tế.

Lễ cưới của người Rơ Mạ sẽ gồm hai bước là lễ đính hôn và lễ cưới. Họ có một nét mới là sau khi kết hôn có thể ly hôn với nhau, nhưng khi sống chung thì hầu hết sẽ không bỏ nhau nữa. Khi sinh nở, người phụ nữ Rơ Ma sẽ ở trong một ngôi nhà nhỏ trong rừng, đến ngày sinh nở sẽ nhờ đến một bà đỡ có kinh nghiệm trong làng. Khi mang thai cho đến khi trẻ được 3 tuổi, mẹ sẽ phải kiêng ăn những đồ ăn nhiều dầu mỡ. Trước đây, khi mới sinh vào nhà, người La Mã kiêng không cho người lạ vào, nếu ai vi phạm sẽ bị nhốt trong nhà cho đến khi hết thời gian kiêng của đứa trẻ và đặt tên cho đứa trẻ buộc phải được đặt tên theo mẹ của mình.

Người dân tộc Rơ Ma vẫn có thói quen ăn nhanh và món ăn khoái khẩu của họ thường xuất hiện trong bữa ăn hàng ngày là xôi được đốt trong ống tre, chấm với nước dùng và muối ớt. Nước uống sẽ được lấy từ mạch nước ngầm và đựng trong vỏ bầu khô, uống trực tiếp không cần đun sôi.

Lễ hội lớn nhất của người Rôma diễn ra sau khi kết thúc vụ thu hoạch nương rẫy, lúc này các gia đình sẽ cùng nhau tổ chức lễ ăn mừng tiếp theo. Sau khi lễ cúng cơm kết thúc sẽ có lễ thành hôn hoặc lễ cấp mã cho người chết.

Người Rơ Măm

Dân tộc Brâu

Dân tộc Brâu: 525 người

Người dân tộc Brâu sử dụng ngôn ngữ Môn – Khơme. Họ quen sống du canh du cư với phương thức đốt rừng trồng lúa, ngô, sắn nhưng kỹ thuật canh tác còn kém, công cụ sản xuất còn thô sơ nên năng suất chưa cao.

Trong phong tục người Brâu, lễ cúng nhà được coi là một dịp trọng đại, lúc đó cả làng sẽ được mời đến chung vui.

Trang phục dân tộc Brâu khá đơn giản nhưng vẫn giữ được nét thanh tú. Đối với nam, họ sẽ mặc loại áo thẳng và vuông với họa tiết mũi tên hoặc hàng rào trên áo để thể hiện sức mạnh của mình. Phụ nữ sẽ mặc những chiếc váy có hoa văn nhẹ nhàng với nhiều đồ trang sức bằng vàng và bạc được sử dụng trên chân và tay.

Dân tộc Brâu

Hiện nay, người Brâu vẫn giữ phong tục đánh răng như một lễ mừng tuổi và coi đó như một thủ tục giúp người đã khuất về với tổ tiên. Quy trình này diễn ra trong nhiều giờ và người ta sẽ dùng đá mài để đóng nướu cho 4 răng hàm. Cuối cùng, họ sẽ sử dụng một loại vỏ cây rừng để cầm máu, khử trùng và giảm đau

Chiêng tha được cho là nhạc cụ dân tộc gia truyền của dân tộc Brâu. Giá thành lên đến 30-50 con trâu cho một bộ. Là biểu tượng cho trí não và tâm linh của người Brâu trong các hoạt động lễ hội, nó như sợi dây kết nối giữa thế giới con người và các vị thần. Ngoài ra, người Brâu còn có một loại nhạc cụ gồm 5-7 ống dài gọi là Krong Putt – nhạc cụ thường được các cô gái Brâu sử dụng trong đám cưới, hát dân ca hay hát ru.

Dân tộc Khmer

Dân tộc Khmer: 1.319.652 người

Trong số những tên gọi và hình ảnh của 54 dân tộc Việt Nam, không thể thiếu người Khơme. Họ thuộc nhóm 21 dân tộc nói ngôn ngữ Môn Khmer. Khu vực sinh sống sẽ rải rác từ Tây Bắc, Tây Nguyên đến một vài nơi ở Nam Bộ.
Văn hóa của người Khmer cũng rất phong phú với nghề nông làm ruộng, họ sở hữu nhiều lễ hội và nét văn hóa truyền thống. Một số lễ hội nổi tiếng của người Khmer có thể kể đến như lễ cúng Trăng, lễ cúng ông bà, Tết Chol Thnam Thmây, ngày Vonabat, ..

Là một quốc gia có mạng lưới ngôn ngữ và hệ thống chữ viết riêng, cùng với một kho tàng truyện cổ, thần thoại cổ, truyền thuyết, thần thoại và nghệ thuật sân khấu, mỹ học truyền thống. nổi tiếng và huyền thoại. Âm nhạc của người Khmer cũng bị ảnh hưởng một phần bởi vương quốc Ấn Độ

Phần lớn người Khmer theo đạo Phật với mạng lưới các vị thần, thần thú mang đậm dấu ấn Bà la môn. Đặc biệt, ở vùng Nam Bộ nơi có đồng bào dân tộc Khmer sinh sống nhiều nhất, có khoảng 600 ngôi chùa lớn nhỏ với kiến ​​trúc lạ mắt được xây dựng cách đây vài thế kỷ. Chúng đã trở thành những di sản rực rỡ của người Khmer, như: chùa Mẹ, chùa Áng, chùa Dơi, chùa Hang, ..

Nói về trang phục, không ai trong chúng ta không thể thiếu những chiếc váy xà rông của phụ nữ hay xà rông của đồng bào dân tộc Khmer.

Dân tộc Khmer

Dân tộc Ơ Đu

Dân tộc Ơ Đu: 428 người

Dân tộc Ơ Đu là dân tộc ít người nhất trong số 54 dân tộc ở Việt Nam. Người Ơ Đu hiện nay sinh sống phần lớn ở Tương Dương, Nghệ An. Họ sử dụng ngôn ngữ của chi Khomi thuộc ngôn ngữ Môn – Khmer. Về văn hóa, người Ơ Đu bị ràng buộc bởi văn hóa của dân tộc Thái hay Khơ Mú. Họ sống chủ yếu bằng nghề nông, săn bắt và hái lượm. Những con vật như gà, lợn thường được nuôi với mục đích cúng bái, đãi khách đến nhà.

Hôn nhân của người Ơ Đu có tục không lấy vợ cùng dân tộc, thường lấy chồng khác tộc. Họ cũng có tục ở rể, sau khi chung sống một thời gian mới được rước vợ về nhà bà ngoại. Phụ nữ Ơ Đu còn có tục sinh con trong tư thế ngồi, tuổi của đứa bé sẽ được tính từ ngày có sấm trong năm, lúc này sẽ được tính là một năm đầy tháng cha mẹ mới có một buổi lễ đặt tên.

Người Ơ Đu quanh năm có nhiều lễ hội như Tết Nguyên tiêu, Tết Tây,… Nổi bật và lớn nhất là lễ hội đón tiếng sấm đầu năm, vào ngày này người ta sẽ mở hội để tế trời và giết mổ thịt trâu, lợn, gà ăn mừng

Dân tộc Ơ Đu

Lời kết

appvn đã tổng hợp toàn bộ thông tin về tên và hình ảnh của 54 dân tộc Việt Nam qua bài viết trên. Anh em dân tộc ta tuy khác nhau về ngôn ngữ, nếp sống, văn hóa… nhưng đều là anh em một nhà, con Rồng cháu Tiên sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hy vọng qua bài viết này, cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam sẽ đoàn kết hơn nữa, chung tay góp sức vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước!

Đánh giá của bạn là động lực của chúng tôi

Nhấn sao bên dưới để đánh giá

Trung bình 5 / 5. Số lượng: 20

No votes so far! Be the first to rate this post.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

© 2024 Kho tải game, ứng dụng hay miễn phí - WordPress Theme by WPEnjoy